Ngữ Văn 11 | Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại từ "Tràng giang" (Huy Cận)

Ngày 01/03/2022 17:29:21, lượt xem: 6807

Đề bài: Phân tích "Tràng giang" của Huy Cận. Từ đó làm rõ vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bài thơ.

 

 

Bài làm

Những dòng sông hiền hòa, thơ mộng hay hùng vĩ, mênh mang, chắt chiu phù sa nuôi bến bờ xứ sở. Những dòng sông tắm mát, vỗ về, an ủi, nâng đỡ tâm hồn bằng cái bao dung mở lòng ngọt ngào của nước. Và rồi, sông nuôi nấng tâm hồn thi sĩ. Sông dạo những bản tình ca êm đềm, những khúc nhạc mạnh mẽ kiêu hùng. Biết ơn những dòng sông để từ đó Trương Hán Siêu viết “Bạch đằng giang phú”, để Văn Cao làm “Trường ca sông Lô”, để nhà văn Nguyễn Huy Thiệp tha thiết “Chảy đi, sông ơi!” Và để một chiều thu đã xa, Huy Cận đạp xe đến bờ nam bến Chèm, ngắm nhìn dòng sông miên man nước chảy mà thấy “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” và rồi vẽ nên một bức tranh quấn quyện, hài hòa giữa phong vị cổ điển và hiện đại của “Tràng giang”.

Còn nhớ, nhà phê bình Hoài Thanh đã từng nhận xét thế này: “Đời chúng ta nằm trong một vòng chữ tôi, mất bề rộng ta đi tìm bề sâu, càng đi sâu ta càng lạnh, ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình của Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu”. Nếu Xuân Diệu gắn liền với đắm say với thiết tha, rạo rực thì nhà thơ Huy Cận lại gắn liền với nỗi sầu vạn kỷ mênh mang, đa sầu, đa cảm. Bài thơ “Tràng giang” là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và tình thơ Huy Cận được sáng tác vào một buổi chiều mùa thu năm 1939. Ở đó ta thấy một bức tranh thiên nhiên mênh mông vương màu buồn thương, hiu quạnh của một cái tôi mang nỗi sầu vạn kỉ.

Cảm hứng của bài thơ quả là cảm hứng không gian. Không gian được trải ra từ mặt sông lên tận chót vót đỉnh trời, không gian được mở ra từ thẳm sâu vũ trụ vào tận thăm thẳm tâm linh con người. Ấy là một thế giới vừa được nhìn bằng sự chiêm nghiệm cổ điển, vừa được cảm nhận bằng tâm thế cô đơn của một cái “tôi” hiện đại, rất đặc trưng cho Thơ mới. Có lẽ vì thế mà “Tràng giang” hiện ra như một bức tranh tạo vật trường cửu, lớn lao, vừa hoang sơ, vừa cổ kính, trong đó thi sĩ hiện lên như một lữ thứ đơn độc lạc loài?

Trước hết, không gian “Tràng giang” thuộc về mênh mông vô biên. Ngay cái tên bài thơ đã như một cửa ngõ mở vào vô biên bởi “Tràng giang” gợi ra hình tượng một con sông chảy mênh mang giữa trời đất. Và câu đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, tuy vẫn còn nằm ngoài văn bản, nhưng nó đã như một bức rèm hé mở mang ta vào với vô tận, mà người đọc cần vén lên; hoặc như một hành lang mở thông vào vô biên, mà người đọc cần dấn bước.

Dẫu sao, những hình ảnh sống động của một thế giới có thể cảm nhận hoàn toàn trực quan chỉ thực sự mở ra với những câu đầu:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song”

Có lẽ cái chất thơ của sông nước đã nhập vào những câu thế này để phô bày vẻ đẹp của nó. Câu thứ nhất tả sóng, câu thứ hai tả những dòng trôi, những luồng nước trên mặt sông. Nếu câu thứ nhất gợi được những vòng sóng đang loang ra, lan xa, gối lên nhau, xô đuổi nhau đến tận chân trời, thì câu thứ hai lại vẽ ra những luồng nước cứ song song, rong ruổi mãi về cuối trời. Không gian vừa mở ra bề rộng, vừa vươn theo chiều dài. Đúng là nó có thấp thoáng âm hưởng hai câu thơ cũng tả sông nước trong bài “Đăng cao” nổi tiếng của Đỗ Phủ:

“Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ

Bất tận trường giang cồn cồn lai.”

(Ngàn cây bát ngát, lá rụng xào xạc

Dòng sông dằng dặc, nước cuồn cuộn trôi.)

 

ĐỌC THÊM NGỮ VĂN 11 | NỖI ÁM ẢNH THỜI GIAN VÀ SỰ KHẮC KHOẢI KHÔNG GIAN

 

Cũng dùng những từ láy nguyên để gợi tả, trong khi tác giả “Đăng cao” đặt ở giữa câu, thì tác giả “Tràng giang” lại đẩy xuống cuối câu. Nhờ thế hai từ láy nguyên “điệp điệp” và “song song” tạo ra được dư ba. Nghĩa là lời thơ đã ngừng mà ý hướng và âm hưởng vẫn còn vang vọng như dội mã vào vô biên. Trước không gian mênh mông, vô tận của sóng nước, Huy Cận như thả hồn mình nơi ấy, để rồi từng con sóng cũng biết “buồn điệp điệp” - một nỗi buồn không mãnh liệt trào dâng mà u sầu miên man không sao ngừng được. Giữa một dòng sông lớn mang trong lòng một nỗi buồn lớn thấp thoáng hơi ấm của con người khi xuất hiện hình bóng của “thuyền” nhưng lạ thay con thuyền ấy lại “xuôi mái” chảy theo dòng nước mênh mông vô định, không người chèo lái, không bến bờ trở về. Văn học xưa nay ta vẫn hay thấy cặp hình ảnh thuyền và nước, chúng gắn bó chặt chẽ với nhau. Ấy thế mà giờ đây, trong hồn thơ Huy Cận - một tạng thơ ảo não, sầu muộn thì thuyền và nước lại xa cách, biệt li:

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”

Thuyền và nước những tưởng là hai hình ảnh song song đồng hành với nhau, đến đây lại cách xa, buồn tủi. Hình ảnh đối ngẫu “thuyền về nước lại” gợi sự chia lìa xót xa, thuyền một hướng, nước một hướng, sầu thương vô cùng. Thuyền lênh đênh trôi mãi đi xa để lại dòng nước lặng lẽ ở lại, heo hắt, cô quạnh. Thuyền và nước ở đây không còn là sự vật vô tri vô giác của thiên nhiên mà đã được nhân hóa lên như một con người. Trước sự chia li, cách biệt chúng cũng có cảm xúc như con người: “sầu trăm ngả”. Nỗi sầu không ngả một bên mà ngả trăm đường, lan tỏa, tràn lan như bao trùm cả khoảng không. Sự trái ngược đó nhìn có vẻ phi lí nhưng ta cũng thấy rõ sự logic trong câu thơ của tác giả, nó thể hiện được cảm xúc chủ đạo của bài thơ, sự chia li, xa cách trước thời thế của cuộc đời, dạt dào trôi nổi trong trạng thái bị động và nỗi buồn trong cái tôi của Huy Cận. Để rồi một hình ảnh thật lạ, thật đặc biệt bước vào thi ca như để phá vỡ mọi quy phạm của văn học trung đại:

“Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Từ một cành cây xanh tươi nơi núi rừng đầu nguồn đến một cành củi khô bập bềnh trôi nổi dưới dòng, ta biết thân phận cỏ cây ấy đã qua nhiều thương đau. Điều đó khiến ta liên tưởng đến những phận người bé nhỏ, nổi trôi, bị dập vùi trước bể dâu cuộc đời. Trong câu thơ này, Huy Cận đã sử dụng biện pháp đối lập triệt để. Bên này là “củi một cành khô” còn bên kia là “lạc mấy dòng” như để tô đậm thêm sự mênh mông vô tận của không gian sông nước song cũng khiến người đọc không khỏi bận lòng trước một cành củi bị dập vùi. Dẫu nhấn mạnh điều gì thì ta cũng không thể phủ nhận nỗi buồn, sự cô đơn, chơi vơi, lạc lõng của thi nhân giữa dòng đời vô chung vô thủy, trước thời đại xô bồ, hỗn loạn. Tâm trạng ấy không chỉ có ở Huy Cận mà ta còn gặp trong một hồn thơ tha thiết, khát yêu của Xuân Diệu:

“Tôi là con nai nhỏ bị chiều giăng lưới

Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối”.

Suốt dọc bài thơ, Huy Cận còn dày công khắc họa vẻ mênh mông vô biên của không gian bằng biết bao chi tiết giàu tính nghệ thuật khác.Vừa dùng cái lớn lao để gợi sự mênh mông, vừa dùng cái hữu hạn để gợi sự vô cùng. Ấy là hàng trăm ngả sông, bao cồn đất:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”

Khung cảnh bến bờ hoang vắng trong một buổi chiều mùa thu buông xuống chỉ thấy lơ thơ vài cây cỏ mọc lổm nhổm trên những cồn cát nhỏ chạy giữa dòng sông gợi một thiên nhiên bao la chìm trong sự cô đơn, hoang vu, lạnh lẽo. Nếu ở khổ thơ đầu ta chỉ thấy được hình ảnh con thuyền lênh đênh một mình với nỗi buồn “điệp điệp” thì ở khổ thơ thứ hai ta lại được nhìn thấy những cồn cát nhỏ bé, trôi nổi lênh đênh trên mặt nước sóng vỗ đang dần bị sức mạnh của gió cuốn trôi. Hình ảnh đó làm ta liên tưởng đến số phận con người trong xã hội cũ lúc bấy giờ. Tất cả đều là bị động, số phận của con người giờ đây đã bị an bài, sắp đặt. Hình ảnh cồn nhỏ và những ngọn gió đìu hiu, lạnh lẽo trong một không gian rộng lớn khiến người đọc không khỏi bồi hồi, xao xuyến, đồng cảm với cảm xúc của nhà thơ.

Khát thèm âm thanh của cuộc sống người, thi sĩ lắng nghe, không dám mơ đến thứ âm thanh náo động vui tươi, chỉ mong gặp thứ âm thanh xoàng xĩnh nhất, buồn chán nhất của cuộc sống người:

“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”

Huy Cận mượn thi pháp văn trung đại thật khéo, ấy là lối lấy động tả tĩnh, lấy âm thanh để gợi mở một không gian vô cùng tĩnh tại. “Đâu” mang ý nghĩa thứ nhất là không tồn tại. Giữa cả một khung cảnh với thiên nhiên rộng lớn, vắng vẻ nhưng không nghe thấy bất kì một tiếng động nào từ phiên chợ tạo nên một khoảng không gian buồn hiu, quạnh vắng. Hay cũng có ý kiến cho rằng “đâu” được hiểu với nghĩa đâu đó vẫn có tiếng chợ lao xao, rì rào của phiên chợ tàn. Dù theo nghĩa nào thì nó cũng nhằm nói đến cuộc sống tân rã, một đằng thì đã vắng bóng, một đằng thì đang vắng bóng mà thôi.

 

ĐỌC THÊM Màu sắc cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng Giang

 

Một bức tranh thiên nhiên hiu quạnh, vắng lặng, thiếu vắng sự sống con người là thế! Nhưng có lẽ bức tranh vô biên của “Tràng giang” đạt đến tận cùng là ở hai câu này:

“Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng bến cô liêu.”

Câu trên là sự vô biên được mở về chiều cao. Câu dưới là sự vô biên cả bề rộng và chiều dài. Có một khoảng không gian đang giãn nở ra trong cụm từ: “Nắng xuống, trời lên”. Hai động từ ngược hướng lên và xuống đem lại một cảm giác chuyển động rất rõ rệt. Nắng xuống đến đâu, trời lên đến đó. Và nó được hoàn tất bởi cụm từ “sâu chót vót”. Có cái gì như phi lí! Có lẽ không chịu được vẻ phi lí mà có nhiều người đã cố tình in và viết thành “sầu chót vót” để dễ dàng hình dung hơn. Tiếc rằng, chính “sâu” mới là sự xuất thần của hồn thơ. Đây không phải là sự lạ hóa ngôn từ. Nếu có, thì trước hết là sự lạ hóa trong cách nhìn, trong cảm giác. Ánh mắt tác giả không dừng lại ở đỉnh trời một cách thường tình để nhận biết về chiều cao, mà nó như xuyên vào đáy vũ trụ để cảm nhận về chiều sâu. Song, dẫu sao, đây vẫn vẫn là chiều sâu của một cái nhìn ngước lên. Cho nên, mới là “sâu chót vót”. Chót vót vốn là một từ láy độc quyền của chiều cao, bỗng phát huy một hiệu quả không ngờ. Nó còn gợi sắc thái chưa hoàn tất. Dường như cái nhìn của thi sĩ vươn tới đâu thì trời sẽ sâu tới đó, mỗi lúc một chót vót hơn. Vừa tương xứng vừa hô ứng với câu trên, câu thứ hai mở ra bát ngát, tít tắp. Câu thơ được viết giản dị, không chữ nào lạ, ngỡ như chỉ là sự sắp xếp các chiều kích của tràng giang, thế thôi! Vậy mà thấy động. Các trạng thái tĩnh, các tính từ dường như “cựa quậy” đòi động từ hóa. Trong áp lực của cái nhìn xa hút, có cảm giác “sông dài” (ra) trời rộng (thêm). “Sông dài trời rộng” bao nhiêu, to lớn bao nhiêu thì sự sống của con người càng nhỏ bé bấy nhiêu. Sở dĩ tác giả sử dụng “cô liêu” để làm nổi bật cảnh vật không có sự xuất hiện bóng dáng của con người, con người chỉ là một phần nhỏ trong không gian, một hình thể nhỏ bé trong vũ trụ khổng lồ với nỗi buồn hiu quạnh.

Khung cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng chiều hiện lên thật đẹp song cũng thật buồn, nỗi buồn ấy phải chăng do sự hiu quạnh của thiên nhiên hay do nỗi lòng người nghệ sĩ đang nặng trĩu:

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợn chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Cùng với hình ảnh của thuyền và củi thì đó là hình ảnh bèo trôi dạt. Sự cô đơn, lạc lõng cứ miên man nối dài từ khổ này sang khổ khác khiến người đọc cảm nhận sâu sắc sự lênh đênh, trôi nổi, vập dùi của kiếp người nhỏ bé. Họ sẽ đi đâu về đâu trước cuộc đời dâu bể? Hay họ đành bất lực phó mặc phận mình cho dòng đời xô đẩy, dập vùi? Ý thơ này của Huy Cận phải chăng được lấy cảm hứng từ câu ca dao than thân:

“Thân em như trái bần trôi

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu”

Hình ảnh không phải mới nhưng vẫn đặc biệt khi đặt giữa dòng “tràng giang”, người đọc thấm thía cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian, cái vô cùng của thiên nhiên tạo hóa. Để rồi hai bên bờ sông tựa như hai thế giới cách biệt, những phương tiện giao lưu gợi sự có mặt của con người cũng không hề có:

“Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật”

Những con đò, thuyền, bến bờ đều là những nơi rất quen thuộc, gần gũi với con người. Đó là địa điểm buôn bán, giao thương, chuyện trò khi phiên chợ bắt đầu ấy thế mà trong câu thơ của tác giả lại mang những cảm xúc chơi vơi, im ắng đến lạ kỳ, một cảm giác thật trống vắng, cô đơn lạnh lẽo không một bóng dáng con người. Với nỗi chơi vơi, thầm kín đó, tác giả mong muốn được tìm sự đồng cảm, sự sẻ chia “không cầu gợi chút niềm thân mật” nhưng vẫn tuyệt nhiên không tìm thấy chỉ còn lại “bờ xanh tiếp bãi vàng”. Nỗi buồn cứ thế nối tiếp nhau, trải dài và giãn nở trong một không gian mênh mông vô tận. Hình ảnh thiên nhiên tuyệt đẹp lại trái ngược với hình ảnh con người, giờ đây không còn nữa. “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi nữa” trong bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu cũng đề cập đến điều này. Sự vắng bóng đó làm cho cảnh sắc thiên nhiên trở nên ảm đạm, tẻ nhạt, nhàm chán, quẩn quanh chỉ có tiếng sóng vỗ lặng lẽ tiếp nối nhau. Qua đó ta thấy được một bức tranh với cô đơn, một nỗi buồn mênh mang đến vô tận, thể hiện được kiếp người bé nhỏ, trôi nổi bồng bềnh, bơ vơ, bất hạnh thấm thía nỗi buồn của sự cô đơn, hiu quạnh.

Cảm xúc dồn nén đến độ căng nhất định thì sẽ trào dâng ngút ngàn thế nên ở khổ thơ cuối, Huy Cận bộc bạch cả tấm lòng nặng trĩu ưu tư với dân, với nước:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Đứng ở bờ Nam bến Chèm, Huy Cận thả hồn, ngắm cảnh sắc non sông. Một bức tranh đẹp đẽ, tráng lệ. Đó là hình ảnh “lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Những đám mây đan xen vào nhau chờ những ánh tà dương chiếu xuống không trung. Một cảnh thiên nhiên thật ấm áp đến kì lạ. Nhưng đối lập với cảnh hùng vĩ đó ta lại nhìn thấy “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” một nỗi cô đơn, buồn tẻ lại hiện lên trong một bầu trời rộng lớn. Chính sự nhỏ bé hiện ra trong một vũ trụ bao la làm cho cảm xúc của thi nhân như đè nặng hơn. Hình ảnh chim, bến, thuyền, củi,... những sự vật nhỏ bé, đơn côi trước sự rợn ngợp của không gian. Tác giả đã sử dụng biện pháp ẩn dụ để nói đến số phận con người thật nhỏ bé, trôi nổi giữa dòng chiều của những con sóng nước. Tất cả đều là hình ảnh đối lập giữa cảnh thiên nhiên và số phận con người. Đất trời có to lớn, thênh thang bao nhiêu thì số phận con người vẫn chỉ là một hạt cát, một sự sống bé nhọn bấy nhiêu.

“Lòng quê dợn dợn vời con nước”

Nếu sóng nước trong khổ thơ đầu là những “gợn” buồn nối tiếp giữa sông dài trời rộng thì trong câu thơ này, đó đã là những “con nước lớn”. Từ láy “dợn dợn” gợi tả trạng thái những con sóng dập dềnh lên xuống, khi nổi, khi chìm từ đó diễn tả nỗi rợn ngợp của lòng người giữa đất trời mênh mang. “Vời” là ánh mắt nhìn về phương xa, ánh mắt mải miết dõi theo những con sóng nhấp nhô, gối đầu lên nhau, miên man, típ tắp… Theo ánh mắt “vời” về phương xa ấy là nỗi buồn nhớ về miền quê thân yêu, ấm áp, một ánh mắt như khao khát giao cảm, khao khát tình đời, tình người và cũng hoàn toàn vô vọng trong niềm khao khát ấy! Đằng sau ánh mắt “vời con nước” là một tấm lòng quê nặng trĩu ưu tư:

“Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Thôi Hiệu xưa nhớ nhà cũng bởi sắc hoàng hôn như thế:

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu”

Mượn tứ thơ xưa cho câu kết của “Tràng giang”, Huy Cận đã đem đến một phong vị Đường thi cổ điển làm xao xuyến cả câu câu thơ lãng mạn. Nhưng ấn tượng ở chỗ Huy Cận thật biết làm mới mình. Nếu trong thơ Thôi Hiệu, nỗi sầu nhớ quê hương bắt nguồn từ “khói hoàng hôn” - cũng có nghĩa ít nhiều chịu sự tác động của ngoại cảnh thì với cấu trúc phủ định “không … cũng” của Huy Cận đã đem đến một cảm nhận mới: nỗi buồn, sự cô đơn, lòng nhớ quê không chỉ do hoàng hôn, không vì những tác động của ngoại cảnh như thơ xưa. Trái lại nỗi buồn có sẵn trong lòng người, tỏa ra tự lòng người, loang thấm vào ngoại cảnh - nỗi buồn của những người dân đang sống trên đất nước mình mà vẫn “nhớ nhà”, vẫn thấy như “thiếu vắng quê hương” bởi thực chất đó là nỗi buồn của những người dân mất nước. Nỗi buồn của thi nhân trước cảnh sông nước kín đáo hòa quyện với lòng yêu quê hương đất nước.

Buổi chiều mùa thu hôm ấy đã hết, “Tràng giang” cũng đã khép lại trên bàn làm việc, tôi bâng khuâng, lưu luyến trước vẻ đẹp “lạ” của một hồn thơ ẩn chứa “nỗi buồn vạn kỉ”. Ấy là vẻ đẹp của sự hài hòa giữa nét cổ điển và hiện đại. Trước tiên là cái đẹp mang phong vị Đường thi, dường như nó đã ngấm sâu trong từng nét chữ để rồi nồng thở vị xa xưa. Ngay từ nhan đề “Tràng giang” - một từ Hán Việt ý chỉ con sông dài kết hợp với điệp vần “ang” tạo nên sắc thái cổ kính cùng âm hưởng ngân vang dài rộng. Màu sắc cổ điển ngay từ đầu đã dẫn dắt, khơi nguồn cảm hứng cho thi nhân khắc họa bức tranh thiên nhiên vô cùng, vô tận với nỗi sầu muộn chất chứa trào dâng. Và cứ thế phong vị cổ điển như được nối dài miên man bằng những chất liệu, hình ảnh, bút pháp miêu tả, ngôn ngữ, giọng điệu. Vốn ta chẳng còn xa lạ với những hình ảnh như: “sóng gợn, bến, cánh chim, áng mây, bóng hoàng hôn, …” trong thơ xưa, bởi đôi lần ta đã gặp gỡ:

Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”

(Chinh phụ ngâm)

Hay trong bài “Cảm xúc mùa thu” của Đỗ Phủ:

“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”

Quen mà vẫn lạ, ấy là bởi Huy Cận thật biết làm mới mình. Ông đặt để một “cái tôi” cô đơn, sầu muộn trong tứ thơ xưa. Để ta thấy nỗi buồn của lòng người đang tan ra hòa vào không gian vũ trụ đến mênh mông, bất tận. Nó khiến cho vạn vật như trôi nổi, bấp bênh, vô định, thiếu vắng sự sống của con người. Phải chăng vì cô đơn, lạc lõng nên “cái tôi” ấy mới dợn dợn trào dâng nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương ngay cả khi đang đứng trên quê hương mình. Tâm sự ấy chính là dấu ấn của cái tôi đương thời mang trong mình tấm lòng “An Nam hoàn toàn”. Cái tôi ấy chẳng thể lẫn vào đâu được trong tinh thần chung của Thơ mới. Huy Cận đã quyến rũ bao thế hệ bạn đọc bằng cái tạng riêng của mình như thế!

Cổ điển, hiện đại đan xen hòa hợp đã mang đến cho “Tràng giang” âm hưởng nhịp nhàng với cảm xúc buồn hiu, lạnh lẽo. “Tràng giang” đã hiện lên như một bản nhạc êm đềm, thiết tha mang nỗi lòng của Huy Cận gửi vào chốn mênh mông sâu thẳm chẳng có bến bờ nào. Một nỗi niềm chan chứa ưu tư của tác giả về tình yêu quê nhà, đất nước, con người của chính mình ông. Một cảm xúc rất chân thật trước bầu trời thiên nhiên mênh mông, bao la đến bất tận!

 

Để tham khảo thêm nhiều bài viết hay, và chạy nước rút hiệu quả, hãy đăng ký sở hữu các đầu sách và đăng ký khoá học của HVCH nhé!

Link đặt sách: https://bit.ly/2ZPn5bZ

Link đăng kí khóa VIP lớp 12: http://bit.ly/KHOAHOCVANVIP2K4

Link đăng kí khóa VIP lớp 11: https://bit.ly/KHOAHOC2K5

 

Cập nhật thêm những bài viết hay tại các kênh truyền thông của HVCH:

Fanpage:  Học văn chị Hiên

Youtube: Học văn chị Hiên - Youtube 

IG: Học văn chị Hiên

Tiktok: Học văn chị Hiên

Tin liên quan